Rủi ro lạm phát và bong bóng tài sản sẽ là hai rủi ro rất lớn mà nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt.
Lỡ nhịp phục hồi
Thời điểm cuối năm 2020 và đầu năm 2021, Việt Nam là điểm sáng nhất trong số các quốc gia theo đuổi chính sách chống dịch “zero Covid”. Cả nền kinh tế và các doanh nghiệp đều tràn trề hy vọng lạc quan về sự phục hồi.
Tuy nhiên, ngay sau đó là sự bùng phát mạnh mẽ của làn sóng dịch bệnh lần thứ tư khiến nền kinh tế bị thiệt hại nặng nề.
Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chiến lược Việt Nam, điều đáng tiếc là Việt Nam đã bỏ lỡ nhịp phục hồi kinh tế từ năm 2020. Nếu như trong năm 2020, nhất là thời điểm gần cuối năm khi mà nhiều loại vaccine Covid-19 đã được sử dụng ở nhiều nước, Việt Nam sớm triển khai mạnh mẽ việc tiếp cận để mua các vaccine nhằm sớm tiêm vaccine quy mô lớn cho người dân khi đang có lợi thế lớn là chưa có nhiều người mắc Covid-19, thì sẽ hạn chế được nhiều sức ảnh hưởng của dịch bệnh.
Sự bùng phát dịch lần thứ tư đã tác động mạnh và hệ quả là tăng trưởng GDP quý III/2021 đã sụt giảm rõ rệt, âm 6,17%. Quan trọng hơn, khi nền kinh tế nhiều nước trên thế giới đang đi vào quỹ đạo ổn định và tăng trưởng thì Việt Nam lại gặp phải khó khăn rất lớn khi bị đứt gãy chuỗi cung ứng, hoạt động sản xuất của doanh nghiệp bị đình trệ, thị trường lao động bị xáo trộn nghiêm trọng.
Để khắc phục những khó khăn này là không hề đơn giản và cần nhiều thời gian, có lẽ sẽ phải tính theo tháng, ông Thành nhận định.
Cũng theo vị chuyên gia này, một khó khăn khác của các doanh nghiệp hiện nay là mọi chi phí đầu vào, giá nguyên vật liệu đều đang tăng mạnh, chưa kể các chi phí trong phòng chống dịch đều được cộng vào chi phí sản xuất kinh doanh.
Mặc dù thời gian vừa qua, Chính phủ đã có nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người dân nhưng hiệu quả vẫn chưa thực sự rõ ràng, đặc biệt là đối với khu vực phi chính thức. Mọi số liệu thống kê đều chưa phản ánh được hết những thực tế khó khăn của doanh nghiệp hiện nay và rủi ro tiềm tàng của nền kinh tế vẫn đang hiện hữu, ông Thành nhấn mạnh.
Rủi ro lạm phát
Đồng quan điểm, tại Toạ đàm Đánh giá tình trạng kinh tế Việt Nam 2021 và dự báo những rủi ro trong năm 2022 do Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) tổ chức, chuyên gia kinh tế vĩ mô, TS. Phạm Thế Anh cũng cho rằng, rủi ro của nền kinh tế hiện nay là không nhỏ.
Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, chỉ số CPI hiện đang rất thấp, chưa đến 2%. Tuy nhiên, chỉ số giá của tất cả các loại hàng hóa (không tính riêng hàng tiêu dùng) lại tăng đến 23%. Thông thường 2 chỉ số này sẽ biến động cùng nhau nhưng hiện nay, lại có khoảng cách rất lớn, lên đến hơn 10 lần. Điều này cho thấy sức ép lạm phát trong nền kinh tế là không nhỏ.
Nguyên nhân của chỉ số CPI thấp trong quý III vừa qua là do sức cầu yếu, người dân không tiêu dùng được do giãn cách xã hội, doanh nghiệp sản xuất không đưa được hàng hóa đến tay người tiêu dùng, chuỗi cung ứng bị đứt gãy… Trong khi đó, chi phí sản xuất gia tăng do dịch bệnh đều được dồn cả vào giá cả hàng hóa.
Do đó, rủi ro lạm phát trong nền kinh tế thời gian tới rất lớn. Giá cả hàng hóa trong thời điểm cuối năm sẽ tăng mạnh trở lại khi nguồn cầu được khôi phục, ông Thế Anh nhận định.
Rủi ro thứ hai của nền kinh tế được TS. Phạm Thế Anh nhắc tới là vấn đề về chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh Chính phủ đang mở rộng chính sách tiền tệ nhưng nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh thấp, dòng tiền trong nền kinh tế đang dần chuyển sang chứng khoán, bất động sản, bong bóng tài sản đã xảy ra. Nền kinh tế hiện nay không chỉ đối mặt với rủi ro lạm phát mà còn là cả bong bóng tài sản.
Chính vì vậy, dư địa cho chính sách tiền tệ hiện nay là rất hẹp. Khả năng hạ lãi suất, bơm tiền vào nền kinh tế gần như không có, mức cung tiền trong nền kinh tế phải tiếp tục được hạn chế trong năm nay.
Chính sách hỗ trợ của Nhà nước nên chủ yếu áp dụng chính sách tài khoá. Tuy nhiên, nếu vay trong nước, cuối cùng vẫn sẽ làm tăng cung tiền trong trong nền kinh tế. Còn nếu vay nước ngoài, Chính phủ sẽ phải hết sức cân nhắc, bởi nghĩa vụ trả nợ trên thu ngân sách đang tiến gần tới mức 25%. Đây là mốc rủi ro rất đáng báo động, vị chuyên gia này nhận định.
Tăng trưởng kinh tế sẽ rất thấp trong cả năm 2021
Dự báo triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong cả năm 2021, ông Thành cho rằng, điều này sẽ phụ thuộc lớn vào tốc độ và quy mô tiêm chủng vaccine, phản ứng phụ của các biện pháp phòng chống dịch bệnh và hiệu quả thực chất của các gói hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng.
Ở kịch bản cao, cả nước thống nhất được các biện pháp thích ứng với bệnh dịch và vẫn đảm bảo được sản xuất và lưu thông hàng hóa không bị đứt gãy từ quý IV/ 2022, các hoạt động sản xuất và tiêu dùng được phục hồi một cách chậm chạp nhưng tích cực, các trung tâm kinh tế hoàn thành kế hoạch tiêm chủng ngay trong nửa đầu quý IV và mở rộng ra các tỉnh trong những tháng cuối năm, tình trạng phong tỏa cát cứ như trong quý III không bị lặp lại. Với những điều kiện này, nền kinh tế sẽ tăng trưởng 1,8% trong cả năm 2021.
Ở kịch bản thấp, nền kinh tế sẽ chỉ tăng trưởng 0,2% trong trường hợp các chính sách tiếp tục thiếu đồng bộ, dịch bệnh có khả năng tái phát ở một số địa phương dẫn tới việc phải thực hiện hạn chế đi lại, gây bất định cho sản xuất kinh doanh.
Điều này sẽ khiến nhiều đơn hàng tiếp tục rời khỏi Việt Nam để tìm đến các nguồn cung khác do đứt gãy chuỗi cung ứng, thiếu hụt lao động có khả năng sẽ diễn ra đến hết quý I/2022; chi phí tăng cao khiến nhiều ngành thu hẹp, doanh nghiệp tiếp tục đóng cửa hoặc hoạt động cầm chừng.
Cũng theo ông Thành, dù lạm phát chưa trở thành mối đe dọa vĩ mô nhưng những ổn định vĩ mô đang trở nên dễ tổn thương trong giai đoạn tới, khi ẩn số về khu vực doanh nghiệp còn mờ mịt.
Bên cạnh đó, nợ xấu tiếp tục tích lũy và có thể tăng mạnh là nguyên nhân tiềm tàng gây rủi ro cho hoạt động tài chính trong thời gian sau dịch. Chính phủ cần chuẩn bị các tình huống cực đoan để chủ động đối phó, tránh sự rối loạn và những cách điều hành chính sách còn bất nhất như thời gian vừa qua
Đưa ra giải pháp góp phần giúp phục hồi tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới, ông Thành cho rằng, trước hết, tiêm vaccine vẫn sẽ là vấn đề chiến lược cần đẩy nhanh để đảm bảo lưu thông hàng hóa, đi lại giữa các địa phương.
Thứ hai, Chính phủ cần thực hiện các gói tài khóa tập trung vào củng cố hạ tầng, trang thiết bị y tế, lực lượng bác sĩ, đồng thời hỗ trợ người lao động mất việc đặc biệt trong khu vực phi chính thức. Đồng thời, chỉ đạo các tỉnh thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tiếp nhận người lao động quay trở lại trên địa bàn.
Thứ ba, các cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện chính sách tiền tệ thích ứng, đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế nhưng phải kiểm soát được sự tăng trưởng cung tiền quanh mức 10% đi kèm các biện pháp kiểm soát rủi ro ở mức vừa phải, tránh gây lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô.
Cuối cùng, các nhà lãnh đạo cần nhất quán trong các chính sách điều hành kinh tế, kiên định với các nguyên tắc kinh tế thị trường đã được xác lập.
Ví dụ như thời gian vừa qua, các bộ ngành có đề xuất ý tưởng huy động USD hoặc vàng trong dân theo cách dùng trái phiếu, hoặc cơ chế về lãi suất. Đây là chính sách rất thiếu chuyên nghiệp, làm bất ổn kinh tế.
“Việc huy động nguồn lực trong xã hội cần thống nhất để thực hiện qua công cụ lãi suất và các cơ chế đã có trên thị trường tài chính mà đối tượng điều hành duy nhất là VNĐ”, ông Thành nhấn mạnh.
Theo TheLEADER